Giao Tiếp Bằng Trái Tim

HT. THÍCH TRÍ QUẢNG
      Trái tim vật chất có chứa hai dòng máu là dòng máu đỏ và dòng máu đen, nên người ta thường nói là hiểu thấu tim đen. Đen tiêu biểu cho xấu ác, đỏ tiêu biểu cho tốt, gọi là lòng son. Ở đây muốn nói về tấm lòng tốt, nhưng tấm lòng thì có ý tốt và ý xấu. Ý xấu sẽ dẫn đến lời nói xấu và hành động xấu ác, nói đủ là ba nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp mà Phật dạy chủ động là ý nghiệp.
      Thật vậy, Vô Não giết người, cố gắng chạy theo giết Phật, nhưng vẫn không theo kịp. Phật bảo rằng anh quăng con dao thì sẽ theo kịp Phật, nhưng quăng dao rồi vẫn không theo kịp. Phật mới bảo anh phải bỏ con dao trong tâm tức là tánh ác. Nếu tánh ác không có thì lời nói ác và hành động ác cũng không có. Từ tâm ác mới phát xuất ra lời nói ác và hành động ác. Khi người ta nói chuyện với nhau bằng dao búa, bằng súng đạn, đó là hành động cực ác. Vì vậy, khi tu hành, chúng ta khóa hành động ác lại. Phật tử tu một ngày an lạc, nghe pháp, tụng kinh, niệm Phật là đã tự khóa tay chân mình để không có một hành động ác nào xảy ra.
      Lúc tôi mới tu, còn nóng tánh, nên ai chọc giận là tôi đánh liền. Hòa thượng Thiện Hòa bảo rằng tánh nóng thì khó bỏ, nhưng hành động đánh người thì bỏ được. Và ngài dạy tôi tuyệt đối không giao tiếp bằng tay chân. Những lúc nổi nóng, tôi nắm tay định đánh, nhưng nhớ lời thầy, lời Phật dạy đã khắc cốt ghi tâm, nên ngăn chặn hành động ác lại.
      Bước thứ hai là khẩu nghiệp cũng do ý ác, ý xấu bên trong điều khiển. Lời nói bên ngoài có bốn thứ là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Ác khẩu là chửi rủa, nói lời hung ác. Lời nói thô ác phải bỏ, tội này nặng nhất, nhưng dễ bỏ nhất. Bỏ được lời nói thô ác rồi, còn ba khẩu nghiệp là nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều. Nói lưỡi đôi chiều là đem chuyện của người này nói với người kia để gây xích mích, buồn phiền. Thí dụ Phật tử nghe điều gì cảm thấy không chịu được thì tìm người để nói, vì giữ trong lòng mình không chịu được. Thuở mới tu, tôi cũng phạm sai lầm này. Một hôm, nghe Phật tử kể chuyện lôi thôi của một thầy nọ, tôi kể lại cho người khác thì ông thầy nọ và bà Phật tử ghét tôi, nói rằng chú tu hành mà ưa nhiều chuyện. Tôi rất xấu hổ và từ đó, tôi không thấy không nghe việc của người khác. Thấy chỗ có nhiều người thì tôi tránh, hoặc nhìn xuống mà đi. Tập được như vậy, tôi thấy nhẹ lòng, không bị mang tiếng nhiều chuyện và mọi phiền phức không đến với tôi, nên được yên ổn tu hành. Còn mình ưa thấy, ưa biết việc của người, có gì xảy ra là họ nghi mình nói vì nghĩ cái gì mình cũng biết, nhưng cái biết này có lợi gì đâu. Biết cái xấu của người thì khó sống, họ sẽ triệt tiêu mình. Không thấy, không biết việc xấu ác của người vẫn tốt hơn, vì biết như vậy chỉ chuốc lấy phiền não cho mình.
      Tu hành phải cắt bỏ vọng tâm của thấy, nghe, hay biết. Cắt bỏ tánh nhiều chuyện, tánh thêu dệt. Hai tánh xấu này thường đi đôi với nhau, có ít nói nhiều để thành chuyện, người Việt gọi là thêm mắm dặm muối. Việc không có nhưng ông A kể là thành chuyện. Cắt bỏ lời nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, thấy thế nào thì ghi nhận như thế, không thêm không bớt. Nói dối là có nói không, không nói có, thậm chí nói chơi nhưng lâu ngày sẽ thành khẩu nghiệp của mình. Cắt bỏ bốn việc ác của miệng thì được thanh tịnh.
      Tu hành có được thân và khẩu nghiệp thanh tịnh là đã hiện tướng giải thoát. Sống tập thể mà tất cả mọi người lìa được bốn tướng của khẩu nghiệp, ba tướng của thân nghiệp thì chắc chắn đạo tràng thanh tịnh. Việc xấu bên ngoài không nghe, không biết, tâm chúng ta bắt đầu thanh tịnh. Phật dạy rằng ba điều thanh tịnh của ý là vô tham, vô sân và vô si có được vì mình không thấy, không biết thì làm gì có sân si. Thật vậy, nếu đối tác không có thì tâm không khởi được. Có duyên là thấy vật, tâm mới khởi. Thấy vật tốt hay xấu liền sanh tâm muốn lấy hay bỏ. Như vậy, tâm khởi lên là vì nó chạy theo vật. Vật bên ngoài không có, tâm không khởi. Nếu Phật tử để ý sẽ nhận ra ý này. Có người đi chùa, tụng kinh, lạy Phật, nghe giảng, nhưng thực sự tâm họ không nghe; vì trong lúc họ tới chùa lạy Phật, nhưng họ tìm duyên để cho tâm khởi. Ác bên trong của họ có, nên đến đạo tràng, họ tìm người để tâm sự. Đối với họ, tụng kinh lạy Phật là phụ, nhưng tìm người để tâm sự để tạo nghiệp thì được gì.
      Nếu thân và khẩu nghiệp thanh tịnh, tuyệt đối không nói, yên lặng thì ta không nghe tiếng động, không nghe ngôn ngữ, nên tâm mình không khởi. Phật tử tu ở chùa Huê Nghiêm 2 phải tắt điện thoại để không cho tiếng động của ngôn ngữ, tiếng động bên ngoài thì tâm mình mới bắt đầu đứng yên, vì nó không có sự tác động bên ngoài.
      Phật dạy rằng vọng thức khởi lên do thấy nghe, hay biết, xúc chạm, ngửi, nếm; tất cả những việc này cho mình cái biết theo vọng thức. Và cắt bỏ cái biết này là tâm trí đứng yên, chủ yếu là cắt bỏ trần duyên, hay việc đời để ta hướng tâm về đạo. Thể hiện ý này, trong bài hồi hướng của đạo tràng Pháp Hoa, tôi nói rằng: "Trần duyên thuận nghịch tâm không thiết”. Tất cả mọi người hay chư Thiên, chư thần muốn an, đừng khởi vọng tâm. Trong cảnh yên tĩnh và đạt đến sự yên tĩnh cao nhất là tâm chơn như thì tâm như như bất động, bên ngoài động, nhưng tâm chúng ta không động.
      Chúng ta tu có hai trạng thái. Trạng thái một, khi chưa tu, bên ngoài động thì mình động theo là điều bình thường; thí dụ có tiếng sét, ta giựt mình là động theo bên ngoài. Trạng thái hai là tiếng động không có, nhưng tâm mình động. Ý này thể hiện qua câu chuyện giữa Tô Đông Pha và Phật Ấn nói về cái sâu hơn, tức có gió nghiệp khiến cho tâm động, nhưng không có gió nghiệp thì tâm có động hay không. Tu hành, ta phải kiểm chứng điều này. Có động thì biết động, nhưng bên ngoài hoàn toàn yên tĩnh và ta cũng biết cái yên tĩnh đó. Cái biết này là động. Điểm này, Phật Ấn bảo rằng "Vô phong động” là không có gió, tức không có nghiệp trần, nhưng tâm vẫn động. Tâm mình bên trong động thì nghiệp tự khởi, gọi là "Bất động vô phong, động hữu phong”.
      Vì tâm mình động, nên mới có nghiệp khởi. Điều này gợi chúng ta nhớ đến câu chuyện về ngài Huệ Năng. Khi ngài Ấn Tông giảng kinh Pháp hoa, có phướn bay. Học Tăng thấy vậy, một người nói gió động, một người nói phướn động theo gió thổi. Bấy giờ, ngài Huệ Năng đã ngộ sâu, nên nói rằng không phải gió động, không phải phướn động, nhưng tâm các thầy động. Đó là tâm trí lắng yên, nghiệp chướng từ nhiều đời bỗng nhiên mất hoàn toàn. Bên ngoài có động hay không động, có tốt có xấu, có người hay không người, tâm mình vẫn lắng yên mà Tổ Quy Sơn gọi là "Bất dữ chư trần tác đối”.
(Còn tiếp)